Ngày 9/11 theo giờ địa phương, Trung tâm Y tế Langoni của Đại học New York tuyên bố đã hoàn thành thành công ca cấy ghép mắt đầu tiên trên thế giới (bao gồm một phần mô mặt).
Thành công của ca ghép mắt toàn phần đầu tiên trên thế giới là một bước đột phá lớn trong lĩnh vực ghép mặt. Mặc dù vẫn chưa chắc chắn liệu thị lực bình thường có thể được khôi phục hay không, nhưng mắt trái được cấy ghép của bệnh nhân đã cho thấy dấu hiệu phục hồi đáng kể, chẳng hạn như lưu lượng máu bình thường đến võng mạc. Bước đột phá này sẽ mở ra những khả năng mới cho sự phát triển trong tương lai trong liệu pháp thị giác và các lĩnh vực y học liên quan.
"Cuộc phiêu lưu" của cấy ghép mắt
Hiện tại, cấy ghép giác mạc là cách duy nhất để khôi phục thị lực cho những người bị mù giác mạc hình nón, vốn phần lớn đã được bình thường hóa.
Mặc dù có thể thay thế "một phần" của mắt, nhưng việc phục hồi thị lực thông qua cấy ghép mắt toàn phần vẫn là một thách thức lớn do độ chính xác và phức tạp của cơ quan này, cũng như các rối loạn tái tạo thần kinh, đào thải miễn dịch và cung cấp máu võng mạc.
Mắt người được kết nối với não thông qua dây thần kinh thị giác, một phần của hệ thống thần kinh trung ương chịu trách nhiệm truyền thông tin thị giác đến não. Làm thế nào để tái tạo thành công các kết nối thần kinh giữa mắt và não là một yêu cầu quan trọng để khôi phục thị lực sau cấy ghép và là một trong những thách thức lớn nhất của cấy ghép.
Vào tháng 4 năm 1969, bác sĩ nhãn khoa người Mỹ Conard Moore tuyên bố rằng ca ghép mắt toàn phần đầu tiên trên thế giới đã được thực hiện, nhưng mắt cấy ghép không thể tạo nguồn cung cấp máu sau khi phẫu thuật và ca phẫu thuật đã thất bại.
Mắt trong tình trạng tốt sau khi cấy ghép
Bệnh nhân James đã bị mất cánh tay trái trong một tai nạn, với tổn thương nghiêm trọng trên khuôn mặt (bao gồm toàn bộ mũi, môi và má trái bị mất), và mắt trái đã được gỡ bỏ. Tuy nhiên, trong quá trình cắt bỏ, bác sĩ và nhóm của ông sẽ giữ dây thần kinh thị giác càng gần mắt càng tốt để giữ lại chiều dài dây thần kinh và tăng hy vọng cấy ghép.
Để giúp bệnh nhân phục hồi chức năng của mắt cấy ghép tốt hơn, nhóm y tế đã thiết kế các chương trình bổ sung:
Trong quá trình cấy ghép, các tế bào gốc từ nguồn tủy xương của người hiến tặng được tiêm vào dây thần kinh thị giác; Các tế bào gốc cấy ghép có thể hoạt động như các liệu pháp thay thế và các công cụ sửa chữa tự nhiên liên tục phân chia để tạo ra các tế bào khỏe mạnh để thay thế các tế bào bị hư hỏng hoặc rối loạn chức năng.
Trước khi phẫu thuật, nhóm nghiên cứu đã chiết xuất và phân lập các tế bào gốc CD34+từ tủy xương của người hiến tặng và tiêm chúng vào dây thần kinh thị giác phù hợp với người nhận trong quá trình phẫu thuật. Đây là nỗ lực đầu tiên để tiêm tế bào gốc vào dây thần kinh thị giác của con người trong quá trình cấy ghép để thúc đẩy tái tạo thần kinh.
Cuộc phẫu thuật kéo dài khoảng 21 giờ.
Sau khi phẫu thuật, James đã ở trong phòng chăm sóc đặc biệt trong 17 ngày và được xuất viện ngay sau khi được chuyển đến phòng bệnh thông thường để uống thuốc chống đào thải hàng ngày. Sau khi hồi phục ngoại trú, ông đã lấy lại được vị giác và khứu giác và có thể nhai thức ăn đặc.
Trong khám mắt, người ta phát hiện ra rằng mặc dù mắt trái của bệnh nhân không có thị lực, nhãn cầu và áp lực nội nhãn là bình thường và không có dấu hiệu từ chối. Tình trạng mắt sau 5 tháng phẫu thuật vượt xa mong đợi", nhóm nghiên cứu cho biết. Ban đầu chúng tôi hình dung rằng mắt cấy ghép có thể tồn tại ít nhất 90 ngày.